Tìm kiếm Blog này

BỆNH VẨY NẾN LÀ BỆNH MẠN TÍNH

Vảy nến là một bệnh lý viêm mạn tính, miễn dịch qua trung gian tế bào, có liên quan tới gien di truyền, biểu hiện ngoài da hoặc khớp; hay cả da và khớp. Ước tính có khoảng 2 – 3% dân số thế giới mắc bệnh, trong đó bất kỳ lứa tuổi nào cũng có thể bị vảy nến nhưng thường gặp nhất là 15-35 tuổi. Tỷ lệ bệnh gần như bằng nhau ở nam và nữ giới, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế xã hội nào. Vảy nến cũng xuất hiện ở tất cả các dân tộc nhưng với tỷ lệ khác nhau.
Thương tổn
Hiện tại chưa ai biết chính xác nguyên nhân gây ra bệnh vảy nến, nhưng người ta tin chắc bệnh có liên quan tới yếu tố gien. Các nhà nghiên cứu đã công nhận rằng hệ thống miễn dịch của cơ thể phát ra những tín hiệu sai lệch làm kích hoạt tốc độ phát triển của tế bào da nhanh một cách bất thường. Một tế bào da bình thường trưởng thành và rời khỏi bề mặt da trong khoảng 28 – 30 ngày. Nhưng tế bào da của người bệnh vảy nến chỉ cần 3 – 4 ngày là trưởng thành và di chuyển lên bề mặt da, thay vì rơi ra, chúng lại dính với nhau và tạo nên vảy nến.

Thương tổn đặc trưng là mảng da màu đỏ, giới hạn rõ, bề mặt có vảy trắng, dễ tróc, thường xuất hiện ở da đầu, đầu gối, cùi chỏ và thân mình. Ngoài ra thương tổn cũng có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào của cơ thể như móng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng sinh dục và mặt...

Có 5 thể vảy nến, đó là: vảy nến mảng (thường gặp nhất chiếm khoảng 80%), vảy nến giọt, vảy nến đảo nghịch, vảy nến mủ và vảy nến đỏ da toàn thân.

Các thương tổn da của bệnh vảy nến nhìn có vẻ ghê sợ nhưng hoàn toàn không lây cho người khác. Do vậy chúng ta không nên kỳ thị hay xa lánh bệnh nhân vảy nến.

Bệnh lành tính nhưng cần lưu ý tầm soát các bệnh lý kèm theo

Trong hầu hết các trường hợp, vảy nến diễn tiến lành tính, bệnh nhân có thể sống chung với bệnh mà không có ảnh hưởng đáng kể về mặt sức khỏe ngoại trừ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ. Tuy nhiên cần lưu ý một số bệnh kèm theo xuất hiện trước, trong hoặc sau khi khởi phát vảy nến như viêm khớp vảy nến, hội chứng chuyển hóa, bệnh tim mạch...

Vảy nến khớp là một dạng đặc biệt của viêm khớp xảy ra khoảng 10 – 30% bệnh nhân vảy nến. Ở vảy nến khớp, các khớp và mô mềm xung quanh khớp bị viêm đỏ và cứng. Vảy nến khớp có thể bị ở ngón tay, ngón chân, và có thể xảy ra ở cổ, lưng, ngón chân và mắt cá. Trong những trường hợp bệnh nặng, vảy nến khớp có thể gây biến dạng và phá hủy khớp không hồi phục. 

Hiện nay người ta nói nhiều đến một số rối loạn chuyển hóa kèm theo vảy nến như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, béo phì, xơ vữa động mạch…Đây chính là những yếu tố nguy cơ tim mạch do vậy cần lưu ý và tầm soát để phát hiện sớm trên bệnh nhân vảy nến.





Vảy nến da đầu





Một số yếu tố khởi phát hoặc làm vảy nến nặng hơn

Stress có thể làm bộc phát bệnh vảy nến lần đầu tiên hoặc làm bệnh trở nặng hơn. Vảy nến có thể xảy ra ở vị trí da bị chấn thương, người ta gọi đó là hiện tượng Koebner. Chích ngừa, phơi nắng, cào gãi cũng có thể gây hiện tượng Koebner. Một số thuốc như: thuốc chống sốt rét, lithium, một vài thuốc ức chế beta cũng là tác nhân làm bùng phát bệnh. Các yếu tố khác như: thay đổi khí hậu, chế độ ăn, dị ứng…

Có thể kiểm soát nhưng không thể trị khỏi hẳn vảy nến

Hiện tại có rất nhiều phương pháp điều trị vảy nến, tuy nhiên vẫn chưa có cách nào điều trị khỏi hẳn bệnh. Chúng ta hy vọng trong tương lai sẽ có thể thay đổi các gien gây bệnh này hoặc một ngày nào đó sẽ có các phương pháp điều trị bệnh hiệu quả hơn, chuyên biệt hơn cho nhiều dạng vảy nến. Mặc dù vảy nến không thể khỏi hẳn nhưng chúng ta có thể kiểm soát bệnh trong một khoảng thời gian vài tháng thậm chí vài năm. Đôi khi, bệnh không tái phát trở lại, nhưng đa số bệnh nhân mang bệnh mạn tính kéo dài với từng đợt bùng phát và hết bệnh xen kẽ nhau.
Diễn tiến của bệnh vảy nến khó mà đoán trước đượcgây ra sự khó khăn trong điều trị ở nhiều bệnh nhân. Điều quan trọng là phải có đời sống tinh thần thoải mái và đi khám chuyên khoa da để tìm ra phương pháp điều trị thích hợp với tình trạng của mình.

VẨY NẾN GÂY KHÓ CHỊU DA ĐẦU



Không đến nỗi làm cho bệnh nhân đau đớn, không đe dọa tính mạng người bệnh, nhưng bệnh vảy nến da đầu (VNDĐ) gây cho người bệnh sự khó chịu do ngứa ngáy, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, thậm chí gây những chấn thương tâm thần bởi cảm thấy xấu hổ, ngượng ngùng, muốn xa lánh bạn bè, cách ly xã hội. Mới đây, Hội nghị khoa học về đối phó với những thách thức của bệnh VNDĐ đã được tổ chức tại Hà Nội.

Vảy nến da đầu gây khó chịu, mất tự tin cho người bệnh.
Nhận diện kẻ thù

Vảy nến là một bệnh da liễu mạn tính và da đầu là một trong những khu vực bị ảnh hưởng thường xuyên nhất với sự tróc vảy và những mảng vảy nến sưng đỏ. Nó dai dẳng hơn vảy nến ở những vùng khác trên cơ thể. Dấu hiệu đặc trưng của VNDĐ là hiện tượng tróc vảy, có nhiều sưng đỏ thành từng vùng có ranh giới rõ ràng, dễ nhận thấy dọc theo mép tóc, trên trán hoặc sau tai. Nếu không được điều trị, sẽ thường làm xuất hiện các miếng vảy màu trắng bạc và bóng giống như paraffin.

Theo TS. Nguyễn Duy Hưng - Tổng thư ký Hiệp hội Bệnh vảy nến, mấy năm gần đây tỉ lệ bệnh nhân tới điều trị bệnh da đầu ngày càng cao. Nhiều người đến trong tình trạng tổn thương nặng do tự bôi thuốc hoặc sử dụng những bài thuốc dân tộc cổ truyền theo sự mách bảo của người quen. Với bệnh VNDĐ, không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tâm lý người bệnh mà còn có thể liên quan đến một số bệnh lý quan trọng khác: hội chứng chuyển hóa, bệnh lý tim mạch... dẫn đến tình trạng tuổi thọ thấp.

VNDĐ - Bệnh không của riêng quốc gia nào

Tại hội thảo, GS. Thomas Luger - Giám đốc, Chủ tịch khoa Da, Trường đại học Westphalian Wihelons, Munster (Đức), Chủ tịch Hội da của Đức cho biết một thông tin thú vị: tỉ lệ mắc bệnh vảy nến ở châu Âu (da trắng) cao hơn châu Á, châu Phi (da vàng, da đen). Ở Đức, vảy nến là một trong các bệnh da phổ biến nhất, VNDĐ chiếm khoảng 50% bệnh nhân vảy nến và là một thách thức lớn vì da đầu là vùng rất khó điều trị. Bệnh VNDĐ thường phát triển ở độ tuổi sau dậy thì, nhưng ngày nay bệnh nhân là trẻ em cũng nhiều. Ở Đức, tỉ lệ trẻ em mắc bệnh VNDĐ khoảng 1%, bệnh nhân độ tuổi này điều trị rất khó vì các thuốc dùng hiện nay đều được khuyến cáo chỉ dùng cho trẻ em từ 10 tuổi trở lên. Bệnh VNDĐ thường phát triển vào mùa đông, không khí khô hanh thường kích hoạt vảy nến phát triển. Đặc biệt bệnh nhân ở tình trạng căng thẳng thần kinh cũng là nguyên nhân bùng phát bệnh vảy nến.

GS. Thomas cũng thông báo kết quả nghiên cứu sự kết hợp giữa calcipotriol và betamethasone dipropionate trong công thức dạng gen để điều trị VNDĐ. Sự kết hợp giữa hai hoạt chất này là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả, các phản ứng phụ rất thấp, hiệu quả lâm sàng được cải thiện rõ rệt, hoàn toàn thích hợp cho việc quản lý bệnh VNDĐ trong thời gian điều trị lâu dài.



Tổn thương vảy nến trên da.


Đối phó thách thức của bệnh VNDĐ

Tại hội thảo, TS. Trần Văn Tiến - Phó giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương cho biết, hiện nay cả nước có 800 bác sĩ chuyên khoa da liễu trình độ khác nhau, chủ yếu tập trung ở thành phố. Tỉ lệ 800 bác sĩ/83 triệu dân là quá thấp. Nhiều bệnh nhân đã tự ý xử lý bệnh của mình không theo sự chỉ định của bác sĩ hoặc theo kinh nghiệm dân gian truyền cho nhau, chẳng hạn như dùng vảy tê tê. Theo TS. Trần Văn Tiến, chưa có kết luận khoa học về tác dụng của vảy tê tê trong điều trị bệnh vảy nến, có thể nó chỉ có tác dụng điều trị tại chỗ bên ngoài.

Lời khuyến cáo của các bác sĩ là bệnh nhân khi có triệu chứng của bệnh vảy nến cần phải đi khám để xác định thể bệnh vì một số bệnh ngoài da rất giống bệnh vảy nến. Điều trị bệnh vảy nến phải cân nhắc về tuổi, thể bệnh, vị trí thương tổn, diện tích da tổn thương, các thuốc bệnh nhân đã sử dụng...

Thực tế hiện nay, bệnh nhân VNDĐ không mấy hài lòng với những liệu pháp chữa trị hiện có và mong muốn có sự giảm việc sử dụng thuốc trong các liệu pháp điều trị mới đối với bệnh này. Một trong những cách để tăng sự tuân thủ đối với liệu pháp điều trị bệnh VNDĐ là việc cải thiện việc sử dụng thuốc, mang lại tính hiệu quả cao so với những liệu pháp hiện có.

Tuy nhiên, TS. Nguyễn Duy Hưng cho rằng, điều trị bệnh vảy nến phải dựa vào từng trường hợp cụ thể vì có một số thuốc điều trị tốt nhưng lại gây tác dụng xấu đến các bệnh khác. Dựa trên 7 yếu tố để chỉ định điều trị phù hợp: mức độ bệnh, diện tích thương tổn; sự ảnh hưởng của bệnh đến chất lượng sống; mức độ ảnh hưởng của bệnh đến tâm lý người bệnh; mức độ nguy hại của trị liệu với hiệu quả trị liệu; các bệnh lý toàn thân; nhu cầu và mong muốn điều trị của người bệnh; giá thành trị liệu để đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn thuốc: dễ sử dụng; thuận tiện; an toàn; hiệu quả nhanh và lâu dài.

Hiện nay chưa xác định được nguyên nhân đích thực của bệnh vảy nến, người ta chia ra các nhóm bệnh với những nguyên nhân khác nhau: cơ địa (gen di truyền: nếu bố hoặc mẹ bị bệnh thì có khoảng 8% con bị bệnh, nếu cả bố và mẹ đều bị bệnh thì có tới 41% con mắc bệnh); yếu tố khởi động (mắc các bệnh nhiễm khuẩn, sang chấn tâm lý, sang chấn tại chỗ...); rối loạn miễn dịch.

Hương Lan

VẨY NẾN CÓ THỂ NHẦM SANG GÀU


Bệnh vẩy nến là một bệnh rối loạn tự miễn ảnh hưởng đến thẩm mỹ của da và gây ra những biến chứng khá nguy hiểm. Ngoài ra việc dùng thuốc điều trị vẩy nến cũng gây hại đến chức năng gan, thận, tiêu hóa....


Biến chứng do lầm tưởng vẩy nến với gàu

Khi vẩy nến xuất hiện ở da đầu bệnh nhân hay cho đó là gàu vì những vẩy tróc có màu trắng rất giống với gàu. Vì vậy thường không quan tâm hoặc điều trị không đúng thuốc, từ đó dẫn đến tình trạng bệnh nặng thêm.

Bệnh nhân cần lưu ý một số triệu chứng để phân biệt khi vẩy nến xuất hiện ở da đầu như: không rụng tóc, có vẩy trắng vài milimet đến vài centimet nằm sát da đầu. Khi vẩy nến ở tình trạng nặng sẽ xuất hiện những giọt sương huyết. Với vẩy nến da đầu sương huyết xuất hiện ở vùng trán và những nơi tóc không mọc. Ở cơ thể những giọt sương huyết sẽ xuất hiện trên bề mặt đốm vẩy.


Người bị bệnh vẩy nến nên tránh ăn nhiều chất béo; tránh dùng rượu, bia, thuốc lá, cà phê; tránh chấn thương trầy xước; giữ tinh thần thoải mái, không thức khuya…

Thuốc điều trị bệnh vẩy nến hiện nay chỉ mang tính tạm thời. Bệnh không di truyền, không lây lan trong sinh hoạt. Vì bệnh đột nhiên xuất hiện, phát triển, lại đột nhiên lui nên tình trạng này rất khó cho bác sĩ và bệnh nhân trong việc điều trị. Do vậy, khi điều trị, cả bệnh nhân và bác sĩ cần có sự kiên nhẫn, hợp tác để tình trạng bệnh không đi đến những biến chứng.

Dạng nặng có thể gây tổn thương khớp

Biến chứng của vẩy nến là vẩy nến khớp. Khoảng 53% bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến đều than đau khớp. Đây là dạng nặng của vẩy nến thông thường.

Biểu hiện thường gặp ở vẩy nến khớp là triệu chứng tổn thương móng (chiếm 80% tình trạng bệnh). Một khi có những dấu hiệu tổn thương móng, đau khớp và có tiền sử về bệnh vẩy nến, bệnh nhân nên nhanh chóng chụp phim, làm xét nghiệm để có kết quả chính xác.

Vẩy nến khớp có thể làm tổn thương các khớp tay, ngón tay; chân, ngón chân gây biến dạng, co quắp hoặc các khớp ngón mất đi ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân rất cao. Sự phát triển bệnh vẩy nến khớp cũng tương tự bệnh vẩy nến. Bệnh xuất hiện, phát triển, mất đi, cứ như vậy lặp đi lặp lại nên thuốc điều trị cũng kéo dài.

Điều đáng lưu ý là thuốc dùng điều trị vẩy nến khớp gây nguy hại đến chức năng gan, thận, suy tủy cao vì vậy bệnh nhân nên cẩn trọng khi sử dụng một số thuốc như: dẫn xuất Vitamin D3 Vitamin A, corticoide dạng chích, Methotrexate… Đặc biệt đối với phụ nữ đang điều trị bệnh không nên mang thai vì khả năng gây quái thai cao (chiếm tỉ lệ 99%).

Nguồn: BS Y Dược 365 (S.T)

BỆNH VẨY NẾN VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý

Vẩy nến là bệnh ngoài da mạn tính rất khó điều trị và thường xuyên tái phát. Vị trí xuất hiện trước tiên thường là trên da đầu. Khi xuất hiện những dấu hiệu: da đầu bong nhiều vẩy trắng, bệnh nhân cần tới bác sĩ da liễu khám và có hướng điều trị kịp thời, tránh để bệnh nặng hơn.


Chị Phạm Thị Minh Thu ở tỉnh Điện Biên bị vẩy nến ở da đầu hơn 5 năm. Dù bôi thuốc hàng ngày nhưng chị vẫn bị bong nhiều vẩy, cảm giác rát ngứa, cạy ra thấy màu hồng ở dưới, tóc rụng dần… Chị rất lo lắng, xấu hổ và ngại tiếp xúc với mọi người.
Vẩy nến ở đầu
Dấu hiệu đặc trưng của vẩy nến da đầu là hiện tượng vẩy đóng trên da đầu thành từng mảng lớn và bong ra như gàu, có nhiều sưng đỏ thành từng vùng ranh giới rõ ràng, dễ nhận thấy dọc theo mép tóc, trên trán hoặc sau tai. Vẩy nến da đầu khiến người bệnh cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu, xấu hổ, ngượng ngùng, ngại giao tiếp, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Chuyên gia y tế khuyến cáo, khi xuất hiện những triệu chứng của vẩy nến, bệnh nhân cần tới bác sĩ để được khám và có phương pháp điều trị thích hợp.

Về điều trị, bác sĩ sẽ chỉ định cho bệnh nhân dùng các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân như methotrexat, cyclosporine; ngoài ra, có thể dùng một số thuốc chống viêm, giảm đau, thuốc bôi ngoài da có tác dụng bong vẩy, làm mềm da như acid salicylic, vitamin D3… Với bệnh nhân bị vẩy nến da đầu, có thể dùng các loại dầu gội đặc trị vẩy nến như polytar liquid, tránh dùng các loại dầu gội có tính kiềm mạnh dễ gây kích thích, làm bệnh càng trầm trọng thêm. Tuy nhiên, các thuốc này chỉ điều trị được triệu chứng, dễ gây tái phát. Việc sử dụng những thuốc này cần thận trọng vì có thể gây nhiều tác dụng phụ như loét dạ dày, ảnh hưởng đến chức năng gan, thận.

Bệnh nhân vẩy nến da đầu cần thực hiện chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý, dùng các loại dầu gội ít gây kích ứng da, nên gội đầu bằng nước bồ kết. Để vẩy nến không trầm trọng thêm, người bệnh cần sinh hoạt điều độ, hạn chế đồ uống kích thích như rượu, cà phê, cai thuốc lá, hạn chế các loại thực phẩm cay, nóng, các đồ rán, nướng, hạn chế mỡ động vật, tránh căng thẳng thần kinh. Đồng thời, người bệnh cần xác định tư tưởng “chung sống hòa bình” với bệnh, chính tâm lý thoải mái sẽ góp phần đẩy lùi bệnh tật.

CÀ PHÊ VÀ NGUY CƠ GIA TĂNG BÊNH VẨY NẾN

Mặc dù nhiều nghiên cứu trước đó đã liên kết cà phê với nguy cơ gia tăng bệnh vảy nến, song một nghiên cứu mới đây không tìm thấy bằng chứng như vậy, theo trang tin healthday.com.

Bệnh vảy nến là một bệnh da phổ biến, là nguyên nhân gây mẩn đỏ và kích ứng da. “Giả thuyết của chúng tôi là liệu chất caffeine (có trong cà phê) có làm giảm nguy cơ mắc bệnh vảy nến hay không, vì có nhiều giả thuyết trước đây cho rằng caffeine có thể là một chất chống viêm.

Tuy nhiên, chúng tôi thấy không có mối liên hệ giữa cà phê và nguy cơ gây bệnh vảy nến”, tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Abrar Qureshi, chuyên gia về da liễu thuộc Trường y Harvard (Mỹ) khẳng định. Theo chuyên gia Qureshi, sở dĩ nhiều nghiên cứu trước đây cho rằng có mối liên hệ giữa cà phê với bệnh vảy nến có thể là do có mối liên hệ giữa bệnh này với hút thuốc lá và uống nhiều rượu bia, vốn là những tác nhân gây bệnh vảy nến.


Trong cuộc nghiên cứu mới ở 83.000 người này, những người uống nhiều cà phê nhất cũng là những người hút thuốc lá và uống rượu bia nhiều, chuyên gia Qureshi lý giải thêm.

TRỊ VẨY NẾN NHỜ TRÀ XANH

Các nhà khoa học trường đại học Georgia đã phát hiện ra rằng trà xanh có thể chữa những bệnh về da như gàu, vảy nến hay bệnh lupus.


Tinh chất trà xanh hòa với nước sẽ giúp làm chậm sự phát triển các triệu chứng của bệnh vẩy nến .
Trà xanh trị vẩy nến
Trà xanh cũng làm chậm sự sản xuất các tế bào da bằng cách điều chỉnh lại hoạt động của enzyme caspase 14, caspase 14 có liên quan đến quá trình tái tạo da.

Đối với vẩy nến và một số bệnh về da khác, tế bào da thường sinh sôi nảy nở một cách không kiểm soát được, làm cho da dày hơn, xù xì và giống như vảy cá.

Vì vậy, các nhà khoa học khuyên rằng việc tắm bằng nước trà xanh có thể giúp chữa được những bệnh về da, rất an toàn và không tốn kém.

1.Trà xanh chứa ít caffeine

Mặc dù trà xanh có chứa caffeine, nó vẫn chứa ít hơn nhiều hơn so với cà phê và trà đen. Điều này có nghĩa là nó sẽ không gây ra tác dụng tương tự như cà phê và trà đen như: buồn nôn, mất ngủ hoặc đi tiểu thường xuyên.

2.Điều trị hệ thống miễn dịch và giảm cân

Khi hệ thống miễn dịch không hoạt động bình thường, bạn sẽ cần đến sự hỗ trợ của trà xanh. Trong việc giảm cân, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng uống trà xanh sẽ giúp kiềm chế sự thèm ăn tốt hơn nhiều so với các loại thuốc. Nó cũng giúp nâng cao tỷ lệ trao đổi chất của cơ thể và điều này sẽ giúp cơ thể đốt cháy chất béo với một tốc độ nhanh hơn rất nhiều.

3.Trà xanh ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư

Nghiên cứu về trà xanh cũng đã chỉ ra rằng nó ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, đó là lý do tại sao trà xanh được coi như là một biện pháp phòng ngừa chống lại các loại ung thư khác nhau, đặc biệt là ung thư thực quản.


4.Trà xanh có thể được sử dụng như là một sự trợ giúp cho sắc đẹp

Trà xanh còn được coi là "viện trợ" cho sắc đẹp của chị em bằng cách đơn giản là lấy nước trà xanh rửa mặt hoặc bã trà xanh đắp lên mắt để xóa đi những nét mệt mỏi trên da và quanh vùng mắt. Trà xanh cũng đã chứng minh là một biện pháp khắc phục hiệu quả đối với làn da bị cháy nắng và là một chất sát khuẩn cho các vết xước nhỏ rất tốt, có thể giảm nhiễm trùng.

Trà xanh còn là một nguồn tự nhiên của chất chống oxy hóa và có ý nghĩa tích cực đối với hầu hết các bộ phận của cơ thể.

TRÀ XANH HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ VẨY NẾN

Các nhà khoa học trường đại học Georgia đã phát hiện ra rằng trà xanh có thể chữa những bệnh về da như gàu, vảy nến hay bệnh lupus.


Tinh chất trà xanh hòa với nước sẽ giúp làm chậm sự phát triển các triệu chứng của bệnh vẩy nến .
Trà xanh trị vẩy nến
Trà xanh cũng làm chậm sự sản xuất các tế bào da bằng cách điều chỉnh lại hoạt động của enzyme caspase 14, caspase 14 có liên quan đến quá trình tái tạo da.

Đối với vẩy nến và một số bệnh về da khác, tế bào da thường sinh sôi nảy nở một cách không kiểm soát được, làm cho da dày hơn, xù xì và giống như vảy cá.

Vì vậy, các nhà khoa học khuyên rằng việc tắm bằng nước trà xanh có thể giúp chữa được những bệnh về da, rất an toàn và không tốn kém.

1.Trà xanh chứa ít caffeine
Mặc dù trà xanh có chứa caffeine, nó vẫn chứa ít hơn nhiều hơn so với cà phê và trà đen. Điều này có nghĩa là nó sẽ không gây ra tác dụng tương tự như cà phê và trà đen như: buồn nôn, mất ngủ hoặc đi tiểu thường xuyên.

2.Điều trị hệ thống miễn dịch và giảm cân
Khi hệ thống miễn dịch không hoạt động bình thường, bạn sẽ cần đến sự hỗ trợ của trà xanh. Trong việc giảm cân, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng uống trà xanh sẽ giúp kiềm chế sự thèm ăn tốt hơn nhiều so với các loại thuốc. Nó cũng giúp nâng cao tỷ lệ trao đổi chất của cơ thể và điều này sẽ giúp cơ thể đốt cháy chất béo với một tốc độ nhanh hơn rất nhiều.

3.Trà xanh ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư
Nghiên cứu về trà xanh cũng đã chỉ ra rằng nó ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, đó là lý do tại sao trà xanh được coi như là một biện pháp phòng ngừa chống lại các loại ung thư khác nhau, đặc biệt là ung thư thực quản.

4.Trà xanh có thể được sử dụng như là một sự trợ giúp cho sắc đẹp
Trà xanh còn được coi là "viện trợ" cho sắc đẹp của chị em bằng cách đơn giản là lấy nước trà xanh rửa mặt hoặc bã trà xanh đắp lên mắt để xóa đi những nét mệt mỏi trên da và quanh vùng mắt. Trà xanh cũng đã chứng minh là một biện pháp khắc phục hiệu quả đối với làn da bị cháy nắng và là một chất sát khuẩn cho các vết xước nhỏ rất tốt, có thể giảm nhiễm trùng.

Trà xanh còn là một nguồn tự nhiên của chất chống oxy hóa và có ý nghĩa tích cực đối với hầu hết các bộ phận của cơ thể.

CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI VẨY NẾN

Do nguyên nhân sinh bệnh phức tạp, vẩy nến là một trong những bệnh về da khó chữa hết hẳn. Điều này gây chán nản trong tâm lý người bệnh và làm họ căng thẳng thêm mà càng căng thẳng, càng âu lo, buồn bực thì bệnh càng nặng. Điều này tạo thành một vòng lẩn quẩn ngày càng làm bệnh thêm nặng.


Tuy không điều trị hết hẳn nhưng việc trị liệu sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, giúp thuyên giảm các biểu hiện ngoài da, giảm nguy cơ dẫn đến các biến chứng nặng nề, khó chữa như tổn thương khớp, vẩy nến mủ hoặc bệnh cảnh đỏ da toàn thân. Không những thế, trị liệu đúng cách còn giúp bệnh nhân giới hạn được các tác dụng phụ do thuốc gây ra. Việc phòng bệnh thường chỉ nhằm ngăn chặn sự trầm trọng của bệnh hơn là ngăn bệnh không xảy đến với mình. Vì vậy việc tìm hiểu cách sống chung với bệnh là một việc cần thiết giúp người bệnh có được một cuộc sống thoải mái.
Vẩy nến móng tay
Những việc bệnh nhân nên làm:

- Hiểu được tinh thần sống chung với bệnh một cách lạc quan

- Biết cách chế ngự căng thẳng, vui chơi giải trí lành mạnh

- Giữ sức khỏe tốt, rèn luyện thể lực

- Ăn uống đầy đủ dưỡng chất, ăn nhiều đạm (vì người có bệnh thường bị mất đạm qua lượng vảy tróc ra hằng ngày), ít béo, ngọt (đã có các nghiên cứu cho thấy có sự liên quan bệnh vẩy nến với rối loạn chuyển hóa lipid)

- Điều trị bệnh vẩy nến ngay từ khi thương tổn da còn ít theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa

- Phòng ngừa và trị liệu sớm các nhiễm trùng đường hô hấp, răng miệng

- Thoa kem giữ ẩm cho da khi bệnh đã thuyên giảm

- Tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn phải trị đồng thời nhiều bệnh với nhiều thuốc uống cùng lúc. Một số thuốc uống có thể làm nặng thêm bệnh vẩy nến như thuốc kháng sốt rét hoặc gây tương tác hóa học với nhau.

Những việc bệnh nhân không nên làm:

- Cào gãi, chà xát thương tổn vì ở bệnh vẩy nến có hiện tượng KOEBNER. Đây là hiện tượng nổi thêm sang thương mới sau khi có kích thích cơ học

- Tự điều trị theo mách bảo hoặc dùng đi dùng lại đơn thuốc đã đỡ bệnh trước đây mà không qua ý kiến của bác sĩ chuyên khoa.

- Tắm nước quá nóng, điều này có thể làm nặng thêm tình trạng khô da tróc vẩy

- Uống rượu

Tóm lại, bệnh vẩy nến là một bệnh da mạn tính. Người bệnh cần tuân thủ và hợp tác với thầy thuốc để việc trị liệu đạt hiệu quả. Ngoài ra, một lối sống lành mạnh với tinh thần lạc quan yêu đời kết hợp chế độ dinh dưỡng hợp lí, biết cách chế ngự căng thẳng là những việc khả thi giúp bệnh nhân có cuộc sống tốt đẹp dù cho một phần cuộc sống của họ luôn phải đồng hành với bệnh vẩy nến.

TỶ LỆ NGƯỜI MẮC BỆNH VẨY NẾN KHÁ CAO

Vẩy nến là bệnh tự miễn do rối loạn hệ thống miễn dịch mà biểu hiện đặc hiệu ở cơ quan thượng bì, dẫn đến những triệu chứng ở bên ngoài da. Bệnh gặp ở mọi giới, mọi lứa tuổi, nam thường mắc nhiều hơn nữ. Bệnh chiếm từ 1-4% dân số thế giới.

Ở Việt Nam ước tính có khoảng 2,5 triệu người đang phải sống với căn bệnh này (chiếm khoảng 3% dân số). Những năm gần đây, số người mắc bệnh vẩy nến ngày một gia tăng. Bệnh phát từng đợt, thường xuyên tăng giảm theo mùa.


ẢNH MINH HỌA

Biểu hiện đặc trưng của bệnh vẩy nến là các mảng bám trên da. Đó là các mảng màu hồng, bên trên là những lớp tế bào da chết, khi gãi hoặc cạo thì bong ra những mảng màu trắng, vụn như sáp nến. Bệnh vẩy nến không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm, sinh lý và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Những người mắc bệnh này thường có cảm xúc bối rối, xấu hổ và thường là che giấu làn da mắc bệnh của mình để tránh dị nghị của mọi người xung quanh. Do bệnh vẩy nến còn bị nhầm lẫn sang các bệnh truyền nhiễm khác như bệnh phong, giang mai, thậm chí cả HIV/AIDS nên nhiều bệnh nhân vẩy nến có thể bị trầm cảm, thất vọng làm cho quá trình điều trị càng thêm khó khăn. 

Việc điều trị vẩy nến hiện nay vẫn chưa có phương pháp đặc hiệu nào. Thông thường bệnh nhân được các bác sĩ kê cho uống thuốc làm ức chế miễn dịch và các thuốc bôi ngoài da. Các thuốc ức chế miễn dịch như methotrexate, cyclosporin...tỏ ra hiệu quả đối với bệnh vẩy nến, nhưng thường làm cho bệnh nhân mệt mỏi, khó chịu, ăn ngủ kém, đồng thời có khả năng làm suy giảm chứng năng gan, thận. Ngoài ra các thuốc trên còn có nguy cơ làm cho bệnh bị tái phát nặng hơn. Các thuốc bôi như: acid salicylic, kẽm...có tác dụng làm mềm da, bong vảy, bớt ngứa, nhưng chủ yếu chỉ làm giảm được triệu chứng của bệnh. Vì vậy mục tiêu điều trị hiện nay là phương pháp an toàn, hiệu quả, không độc hại khi chữa vẩy nến lâu dài.

Khi mắc vẩy nến điều quan trọng là người bệnh không nên bi quan, cần có chế độ sinh hoạt, ăn uống điều độ. Tránh ăn nhiều chất béo, tránh dùng rượu, bia, thuốc lá, cà phê, tránh chấn thương trầy xước, giữ tinh thần thoải mái, không thức khuya... Vì điều trị vẩy nến phải sử dụng nhiều thuốc độc hại nên gần đây người ta đã chuyển sang dùng các loại thuốc đông y vừa uống, vừa tắm làm bong da chết. Bài thuốc mà nhân dân ta hay dùng là kinh giới, rau má, bồ công anh, ké đầu ngựa, trinh nữ, xích đồng, thổ phục linh, vỏ gạo, hạ khô thảo, kim ngân, khổ sâm, xác ve sầu, đơn đỏ mỗi thứ 10-12g sắc uống, bã đun để tắm hoặc ngâm chân tay cho bong da chết. Thuốc dùng từ 1-3 tháng thì bệnh lui. Một sản phẩm khác sử dụng tiện lợi hơn là Kim Miễn Khang có L-carnitine fumarate, thổ phục linh, hoàng bá, nhàu, nhũ hương, bạch thược, sói rừng...có tác dụng chống viêm, điều hòa miễn dịch, giúp phục hồi và làm cân bằng hệ thuống miễn dịch của cơ thể, ức chế rất đặc hiệu và chỉ tác động với các tế bào miễn dịch bất thường, giúp bệnh khỏi và khó tái phát. Uống Kim miễn khang ngày 4-5 viên x 2 lần/ngày và liên tục từ 3-6 tháng mà không có tác dụng phụ.

BỆNH VẨY NẾN KHÔNG BỊ LÂY?


Ai dễ mắc, có di truyền?
Bệnh vảy nến biểu hiện trên da bằng các mảng đỏ có giới hạn rõ và đóng vảy. Khi đè lên thì màu đỏ này biến mất. Các mảng đỏ từ vài cm đến hàng chục cm, có phủ vảy màu trắng đục mà khi cạo ra thì nó rớt vụn giống như sáp đèn cầy. Các thương tổn này được phân bổ đối xứng ở rìa chân tóc, da đầu, cùi chỏ, đầu gối, vùng xương cụt. Bệnh không đau, có thể có ngứa với mức độ ít nhiều tùy theo từng người

Bệnh vẩy nến
Trong trường hợp nặng, bệnh có thể gây hư móng, đau khớp, biến dạng khớp, nổi mủ từng vùng hoặc toàn thân và làm cả người bị đỏ da không hồi phục.

Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi (từ trẻ sơ sinh đến các cụ già với tỷ lệ nam và nữ ngang nhau). Bệnh này có tính di truyền, nếu trong gia đình chỉ có hoặc cha hoặc mẹ bị thì khoảng 8% con sẽ mắc bệnh, còn nếu cả cha và mẹ cùng bị vảy nến thì tần suất các con mắc bệnh là 41%.

Bệnh không lây, nhưng chữa không hết
Yếu tố miễn dịch được cho là nguyên nhân chính gây ra bệnh vảy nến. Thêm vào đó, yếu tố di truyền, các bất thường về sinh hóa, chấn thương tâm lý, thuốc… cũng là các yếu tố gây khởi phát, tái phát hoặc làm bệnh nặng thêm. Bệnh này không lây lan. Nhưng các yếu tố làm bệnh nặng hơn là nhiễm liên cầu trùng, nhiễm siêu vi trùng, stress, chấn thương tâm lý…

Do nguyên nhân sinh bệnh phức tạp, vảy nến là một trong những bệnh về da khó chữa hết hẳn. Việc tái phát bệnh thường gây chán nản trong tâm lý người bệnh. Việc trị liệu chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, giúp thuyên giảm các biểu hiện ngoài da, giảm nguy cơ dẫn đến các biến chứng nặng nề, khó chữa như tổn thương khớp, vảy nến mủ hoặc bệnh cảnh đỏ da toàn thân.

Việc phòng bệnh nhằm giúp ngăn chặn sự trầm trọng của bệnh hơn là ngăn bệnh không xảy đến với mình. Biết cách chế ngự stress, giữ cho sức khỏe tốt, trị vảy nến ngay từ khi thương tổn da còn ít theo các hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa là những việc làm mang lại hiệu quả tốt.

Bệnh nhân phải hiểu được tinh thần sống chung với bệnh, rèn luyện thể lực, vui chơi giải trí lành mạnh, ăn uống đầy đủ dưỡng chất vì người có bệnh thường bị mất đạm qua lượng vảy tróc ra hằng ngày. Chỉ dùng thuốc theo chỉ dẫn của thầy thuốc, không được tự trị lấy!

BS Võ Thị Bạch Sương

CÀ PHÊ VÀ BỆNH VẨY NẾN

Mặc dù nhiều nghiên cứu trước đó đã liên kết cà phê với nguy cơ gia tăng bệnh vảy nến, song một nghiên cứu mới đây không tìm thấy bằng chứng như vậy, theo trang tin healthday.com.

Vẩy nến ở chân
Bệnh vảy nến là một bệnh da phổ biến, là nguyên nhân gây mẩn đỏ và kích ứng da. “Giả thuyết của chúng tôi là liệu chất caffeine (có trong cà phê) có làm giảm nguy cơ mắc bệnh vảy nến hay không, vì có nhiều giả thuyết trước đây cho rằng caffeine có thể là một chất chống viêm.

Tuy nhiên, chúng tôi thấy không có mối liên hệ giữa cà phê và nguy cơ gây bệnh vảy nến”, tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Abrar Qureshi, chuyên gia về da liễu thuộc Trường y Harvard (Mỹ) khẳng định. Theo chuyên gia Qureshi, sở dĩ nhiều nghiên cứu trước đây cho rằng có mối liên hệ giữa cà phê với bệnh vảy nến có thể là do có mối liên hệ giữa bệnh này với hút thuốc lá và uống nhiều rượu bia, vốn là những tác nhân gây bệnh vảy nến.


Trong cuộc nghiên cứu mới ở 83.000 người này, những người uống nhiều cà phê nhất cũng là những người hút thuốc lá và uống rượu bia nhiều, chuyên gia Qureshi lý giải thêm.

CHẾ ĐỘ ĂN CHO NGƯỜI VẨY NẾN

Chế độ dinh dưỡng cho người bị vảy nến

Có nhiều phương pháp điều trị bệnh vảy nến, nhưng hình thức thường được áp dụng vẫn là các loại thuốc có chứa corticosteroid. dù vậy hiệu quả vẫn chưa được như mong muốn vì hai trở ngại cơ bản:


Vẩy nến da đầu
- Bệnh không dứt hẳn sau khi ngưng thuốc.

- Thuốc có nhiều phản ứng phụ tai hại không thua căn bệnh.

Hiện nay có khuynh hướng trở về với dinh dưỡng liệu pháp nhằm vận dụng hoạt chất dễ dung nạp trong thực phẩm để thay thế các chất dễ gây hại trong dược phẩm.

Thực phẩm ưu tiên:

Cá biển: loại có nhiều 3-Omega như cá hồi, cá thu, cá saba… Nghiên cứu cho thấy nếu dùng 150g mỗi ngày trong nhiều ngày liên tục có thể giảm lượng thuốc corticosteroid đến phân nửa mà không mất hiệu năng của thuốc nhờ 3-Omega có tác dụng ức chế các chất sinh viêm trong bệnh vảy nến như leucotriene 3 và 5.

Rau quả: có nhiều beta-carotin như trái bơ, cà rốt và đặc biệt là xoài để bảo vệ cấu trúc mong manh của da.

Mè đen: vừa chứa dầu béo có cấu trúc tương tự 3-Omega, vừa cung cấp sinh tố E cần thiết cho lớp sợi liên kết (collagen) dưới da.

Bông cải xanh: để bổ sung acid folic là tác nhân sinh học giữ vai trò quan trọng trong tiến trình tổng hợp kháng thể. Chất này lại rất dễ thiếu trong bệnh vảy nến.

Nghêu sò: nhằm cung ứng kẽm, khoáng tố tối cần thiết không chỉ cho da mà cho sức đề kháng. Người bị vảy nến không nên có định kiến phải tránh hải sản vì sợ đó là các món ăn vào thêm ngứa. Quan điểm đó chỉ đúng nếu người bệnh dị ứng với hải sản nào đó.

Và hạn chế:

Thịt, sữa, trứng: vì chứa nhiều arachidon là chất xúc tác cho phản ứng viêm tấy không chỉ ngoài da, mà trong khớp, trên thần kinh ngoại biên…

Rượu bia: vì độ cồn là đòn bẩy cho phản ứng thoái biến các loại chất đạm có tác dụng sinh dị ứng. Hơn nữa, tiến trình giải độc rượu của gan bị trì trệ rất nhiều ở người có cơ địa vảy nến.

Kết luận

Vẩy nến là bệnh hơi khó trị, cần kiên nhẫn. Bác sĩ lo chọn lựa thuốc, bệnh nhân cũng cần hợp tác với bác sĩ và tự chăm sóc bệnh của mình.

-Tắm mỗi ngày để loại bỏ vẩy bám trên da. Tránh nước quá nóng, xà bông quá mạnh làm da thêm khô ngứa. Lau da nhẹ nhàng tránh gây tổn thương thêm.

-Pha dầu tắm như Epson, Dead Sea salt, dầu thực vật trong bồn nước, ngâm mình khoảng 15 phút cho da mềm.

-Ngay sau khi tắm, da còn hơi nước, thoa các loại kem làm ẩm da. Mùa lạnh khô, cần thoa kem làm ẩm da nhiều lần trong ngày.

-Nhớ thoa và dùng thuốc trị bệnh do bác sĩ chỉ định

-Giữ hẹn tái khám để bác sĩ theo dõi tiến triển bệnh, thay đổi trị liệu.

-Phơi nắng nhẹ cũng giúp phần nào nhưng đừng để da cháy nắng

-Tránh gãi chỗ ngứa. Giữ da ấm.

-Tìm hiểu thêm về bệnh để biết cách chăm sóc, tránh tái phát hoặc trầm trọng hơn.

Đôi khi người bệnh cũng nên có thái độ hòa hoãn, sống chung hòa bình với Vẩy Nến, một bệnh tương đối lành tính, tuy khó chữa, nhưng không gây hậu quả hiểm nghèo như nhiều bệnh khác.

ĐỐI PHÓ VÀ HỖ TRỢ

Rất nhiều liệu pháp thay thế có sẵn để điều trị bệnh vẩy nến, bao gồm cả chế độ ăn đặc biệt, kem, bổ sung chế độ ăn uống và các loại thảo mộc. Một số người yêu cải thiện từ các phương pháp điều trị là hữu ích trong điều trị bệnh vẩy nến, nhưng hầu hết chưa được chứng minh có hiệu quả.


Một số liệu pháp thay thế được coi là an toàn nói chung, và có thể hữu ích trong việc làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng như ngứa và nhân rộng.
Vẩy nến ở chân
Aloe vera. Từ lá của cây lô hội, lô hội chiết xuất kem có thể làm giảm đỏ, mở rộng quy mô, ngứa và viêm nhiễm. Có thể cần phải sử dụng kem nhiều lần trong ngày trong một tháng hoặc nhiều hơn để nhìn thấy bất kỳ cải thiện làn da.

Kem Capsaicin. Ứng dụng cho các khu vực bị ảnh hưởng nhiều lần một ngày, kem capsaicin - chiết xuất từ ớt - có thể dễ dàng giảm ngứa và giảm độ nặng của bệnh vẩy nến. Có thể trải nghiệm một cảm giác nóng với các ứng dụng đầu tiên. Hãy chắc chắn để rửa tay sau đó, do đó không vô tình chà kem tới đôi mắt.

Dầu cá. Omega-3 acid béo được tìm thấy trong chất bổ sung dầu cá có thể làm giảm viêm kết hợp với bệnh vẩy nến, mặc dù kết quả từ các nghiên cứu được trộn lẫn. 3 gram hoặc ít hơn của dầu cá hàng ngày nói chung được công nhận là an toàn và có thể tìm thấy nó có lợi.

Nếu đang xem xét bổ sung chế độ ăn uống hoặc liệu pháp thay thế khác để điều trị bệnh vẩy nến, tham khảo ý kiến bác sĩ. Người đó có thể giúp cân nhắc những ưu và khuyết điểm của phương pháp điều trị cụ thể thay thế.

Đối phó và hỗ trợ

Đối phó với bệnh vẩy nến có thể là một thách thức, đặc biệt là nếu bệnh bao gồm các khu vực rộng lớn của cơ thể hoặc ở những nơi dễ nhìn thấy bởi người khác, chẳng hạn như mặt, bàn tay. Đang diễn ra liên tục tính chất của bệnh và điều trị những thách thức chỉ thêm vào gánh nặng.

Dưới đây là một số cách để giúp đối phó và cảm thấy nhiều hơn trong kiểm soát:

Nhận đào tạo. Tìm hiểu càng nhiều càng tốt về bệnh và nghiên cứu lựa chọn điều trị. Hiểu những gì có thể gây nên bệnh, do đó có thể ngăn ngừa bùng phát tốt hơn. Giáo dục những người xung quanh - bao gồm gia đình và bạn bè - để họ có thể nhận biết, xác nhận và hỗ trợ nỗ lực trong việc đối phó với căn bệnh này.

Thực hiện theo khuyến cáo của bác sĩ. Nếu bác sĩ đề nghị một số phương pháp điều trị và thay đổi lối sống, hãy đi theo họ. Hãy hỏi nếu có bất cứ điều gì không rõ ràng.

Tìm một nhóm hỗ trợ. Xem xét việc tham gia một nhóm hỗ trợ với các thành viên khác, những người có bệnh và biết những gì đang trải qua. Có thể tìm thấy sự thoải mái trong việc chia sẻ kinh nghiệm và cuộc đấu tranh, gặp gỡ mọi người phải đối mặt với những thách thức tương tự. Hãy hỏi bác sĩ để biết thông tin về các nhóm hỗ trợ bệnh vẩy nến tại khu vực hoặc trực tuyến.

Sử dụng che đậy khi cảm thấy cần thiết. Những ngày khi cảm thấy đặc biệt tự ý thức, bao gồm bệnh vẩy nến với quần áo hoặc sử dụng mỹ phẩm che đậy, chẳng hạn như trang điểm cơ thể hoặc kem che khuyết điểm. Những sản phẩm này có thể che những mảng đỏ và bệnh vẩy nến. Nó có thể gây kích ứng da, tuy nhiên, và không nên sử dụng trên vùng lở loét, vết cắt hoặc vết thương.

PHONG CÁCH SỐNG CHO NGƯỜI MẮC BỆNH VẨY NẾN

Mặc dù các biện pháp tự giúp đỡ không chữa khỏi bệnh vẩy nến, nó có thể giúp cải thiện sự xuất hiện và cảm thấy da bị hư hỏng. Những biện pháp này có thể có lợi cho:


Tắm hàng ngày. Tắm hàng ngày sẽ giúp loại bỏ các vảy và da viêm. Thêm dầu tắm, keo bột yến mạch, muối Epsom hoặc Dead Sea salt vào nước và ngâm trong ít nhất 15 phút. Tránh dùng nước nóng và xà phòng mạnh, chúng có thể làm tăng các triệu chứng. Thay vào đó, sử dụng nước ấm và xà phòng nhẹ có thêm các loại dầu và chất béo.
Vẩy nến vùng bụng
Sử dụng kem dưỡng ẩm. Thấm khô làn da sau khi tắm, sau đó ngay lập tức áp một thuốc mỡ, kem dưỡng ẩm trên da trong khi vẫn còn ẩm. Đối với da rất khô, dầu có thể được ưa chuộng hơn - ở lại nhiều hơn các loại kem hay thuốc và có hiệu quả hơn để chống sự bay hơi nước từ làn da. Trong thời gian, thời tiết khô lạnh, có thể cần phải áp dụng một loại kem dưỡng ẩm nhiều lần trong ngày.

Bao các khu vực bị ảnh hưởng qua đêm. Để giúp cải thiện đỏ và nhân rộng, áp dụng dựa trên một loại kem dưỡng ẩm thuốc mỡ để bọc da và có bọc nhựa qua đêm. Buổi sáng, loại bỏ phủ và rửa sạch với một bồn tắm hoặc vòi sen.

Phơi làn da đến một lượng nhỏ ánh sáng mặt trời. Một số lượng đáng kể điều khiển của ánh sáng mặt trời có thể cải thiện các tổn thương, nhưng quá nhiều mặt trời có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm các ổ dịch và tăng nguy cơ ung thư da. Nếu tắm nắng, tốt nhất là thử phiên ngắn ba lần một tuần. Ghi lại khi nào và bao lâu đang ở trong ánh nắng mặt trời để tránh tiếp xúc quá mức. Và chắc chắn để bảo vệ làn da khỏe mạnh với một kem chống nắng ít nhất là 15 SPF, chú ý cẩn thận đến tai, bàn tay và mặt. Trước khi bắt đầu bất kỳ chương trình tắm nắng, hãy hỏi bác sĩ về cách tốt nhất để sử dụng ánh sáng mặt trời tự nhiên để điều trị làn da.

Áp kem hoặc thuốc mỡ. Áp kem hoặc thuốc mỡ có chứa hydrocortisone hoặc axit salicylic để giảm ngứa và nhân rộng. Nếu có bệnh vẩy nến da đầu, hãy thử một loại dầu gội có chứa nhựa than đá. Kết quả tốt nhất, hãy làm theo hướng dẫn trên nhãn.

Tránh gây nên bệnh vẩy nến, nếu có thể. Tìm hiểu điều gì gây nên, nếu có, làm trầm trọng thêm bệnh vẩy nến và thực hiện các bước để ngăn ngừa hoặc tránh chúng. Nhiễm trùng, chấn thương da, căng thẳng, hút thuốc lá và phơi nắng dữ dội, tất cả có thể làm trầm trọng thêm bệnh vẩy nến.

Tránh uống rượu. Tiêu thụ rượu có thể làm giảm hiệu quả của một số phương pháp điều trị bệnh vẩy nến

DÙNG THUỐC UỐNG HOẶC THUỐC TIÊM TRỊ VẨY NẾN

Nếu có bệnh vẩy nến nặng hay đó là khả năng kháng các loại điều trị, bác sĩ có thể kê toa thuốc uống hoặc tiêm. Bởi vì các tác dụng phụ nghiêm trọng, một số trong những thuốc được sử dụng trong thời gian chỉ ngắn gọn về thời gian và có thể được xen kẽ với các hình thức điều trị khác.
Retinoids. Liên quan đến vitamin A, nhóm thuốc này có thể làm giảm việc sản xuất các tế bào da nếu có bệnh vẩy nến nặng mà không đáp ứng với liệu pháp khác. Các dấu hiệu và triệu chứng thường trở lại khi ngưng điều trị, tuy nhiên. Các tác dụng phụ có thể bao gồm khô da và niêm mạc, ngứa và rụng tóc. Và bởi vì retinoids như acitretin (Soriatane) có thể gây dị tật bẩm sinh nặng, phụ nữ phải tránh thai trong vòng ít nhất ba năm sau khi uống thuốc.
Vẩy nến ở tay
Methotrexate. Loại uống, methotrexate giúp bệnh vẩy nến bằng cách giảm sản xuất của các tế bào da và viêm. Nó cũng có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh viêm khớp vẩy nến ở một số người. Methotrexate thường được dung nạp tốt với liều lượng thấp, nhưng có thể gây ra đau bụng, chán ăn và mệt mỏi. Khi được sử dụng trong thời gian dài nó có thể gây ra một số tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm tổn thương gan nặng và giảm sản xuất của các tế bào máu trắng, hồng cầu và tiểu cầu.

Cyclosporine. Cyclosporine ngăn chặn hệ miễn dịch và hiệu quả cũng tương tự như methotrexate. Giống như các thuốc ức chế miễn dịch khác, cyclosporine làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và các vấn đề sức khỏe khác, bao gồm cả ung thư. Cyclosporine cũng làm cho dễ bị bệnh về thận và huyết áp cao - tăng nguy cơ với liều lượng cao hơn và điều trị dài hạn.

Hydroxyurea. Thuốc này không có hiệu quả như cyclosporin hoặc methotrexate, nhưng không giống như các loại thuốc mạnh hơn nó có thể được kết hợp với đèn chiếu. Tác dụng phụ có thể bao gồm thiếu máu, giảm tế bào bạch cầu và tiểu cầu. Nó không nên dùng cho phụ nữ có thai hoặc dự định có thai.

Immunomodulator (Biologics). Thuốc immunomodulator, một số được phê duyệt để điều trị bệnh vẩy nến trung bình đến nặng. Chúng bao gồm alefacept (Amevive), etanercept (Enbrel), infliximab (Remicade) và ustekinumab (Stelara). Các thuốc này được cho bởi truyền tĩnh mạch, tiêm bắp hoặc tiêm dưới da và thường được sử dụng cho những người đã không đáp ứng với liệu pháp truyền thống hoặc người có liên quan đến viêm khớp vẩy nến. Biologics làm việc bằng cách chặn các tương tác giữa hệ thống tế bào miễn dịch nhất định. Mặc dù nó có nguồn gốc từ các nguồn tự nhiên hơn là những hóa chất, chúng phải được dùng thận trọng vì chúng có tác động mạnh đến hệ thống miễn dịch và có thể gây nhiễm trùng đe dọa cuộc sống.

Điều trị xem xét

Mặc dù các bác sĩ chọn phương pháp điều trị dựa vào loại và mức độ nghiêm trọng của bệnh vẩy nến và các vùng da bị ảnh hưởng, các phương pháp truyền thống bắt đầu với các phương pháp điều trị ôn hòa nhất - các loại kem và liệu pháp ánh sáng cực tím (đèn chiếu) - sau đó tiến đến mạnh mẽ hơn nếu cần thiết. Mục đích là để tìm cách hiệu quả nhất để làm chậm phát triển bệnh với các tác dụng phụ ít nhất có thể.

Mặc dù một loạt các tùy chọn, có hiệu quả điều trị bệnh vẩy nến có thể được thử thách. Căn bệnh này là không thể đoán trước, đi qua các chu kỳ của cải tiến và làm xấu có vẻ ngẫu nhiên. Ảnh hưởng của phương pháp điều trị bệnh vẩy nến cũng có thể được đoán trước, những gì làm việc tốt cho một người có thể không hiệu quả cho người khác. Làn da cũng có thể trở nên kháng với phương pháp điều trị khác nhau theo thời gian, và phương pháp điều trị bệnh vẩy nến mạnh nhất có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng.

Nói chuyện với bác sĩ về các tùy chọn, đặc biệt là nếu không cải thiện sau khi sử dụng điều trị đặc biệt hoặc nếu đang gặp tác dụng phụ khó chịu. Có thể điều chỉnh kế hoạch điều trị hoặc thay đổi cách tiếp cận để đảm bảo kiểm soát tốt nhất có thể các triệu chứng.

RƯỢU LÀM BỆNH VẨY NẾN NẶNG HƠN

Kết quả nghiên cứu của Trường CĐ Y tế Quảng Đông ở Trạm Giang Trung Quốc cho thấy việc thường xuyên uống rượu với liều lượng cao sẽ làm gia tăng nguy cơ phát triển bệnh vẩy nến.


Ảnh minh họa
Vẩy nến là do rối loạn biệt hóa lành tính của tế bào thượng bì. Cho đến nay vẫn chưa khẳng định rõ ràng nguyên nhân. Nhưng người ta biết chắc chắn năm yếu tố là di truyền, nhiễm khuẩn, stress, do thuốc uống và do gãi, chà xát.

Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp kết quả của 15 nghiên cứu liên quan đến bệnh nhân vẩy nến và phát hiện ra rằng việc uống nhiều cồn làm tăng nguy cơ phát triển vẩy nến so với người kiêng rượu là 53%. Rượu khiến cho bệnh nặng thêm và tương kỵ với các thuốc điều trị loại bệnh này.

Do đó những bệnh nhân bị vảy nến nên kiêng kị và không sử dụng những đồ uống chứa cồn và các đồ uống có tính kích thích khác.

BỆNH VẨY NẾN VÀ VẤN ĐỀ MANG THAI

Nói chung, bệnh vẩy nến không ảnh hưởng đến hệ thống sinh sản nam hay nữ. Tuy nhiên, phương pháp điều trị bệnh vẩy nếnyêu cầu các biện pháp phòng ngừa đặc biệt trước và trong khi mang thai. Điều quan trọng là để tham khảo ý kiến ​​với bác sĩ để lựa chọn phương pháp điều trị bệnh vẩy nến của bạn là an toàn cho việc mang thai và cho con bú.

Vẩy nến không ảnh hưởng đến hệ thống sinh sản 

Bệnh vẩy nến thay đổi trong thời kỳ mang thai?
Một số phụ nữ thấy sự cải thiện trong mức độ nghiêm trọng của bệnh vẩy nến của họ trong thời kỳ mang thai, trong khi những người khác lại cảm thấy bệnh vẩy nến của họ trở nên tệ hơn. Thay đổi mức độ nghiêm trọng của bệnh vẩy nến khác nhau đối với từng cá nhân đáp ứng khác nhau

Khía cạnh di truyền của bệnh vẩy nến
Bệnh vẩy nến được cho là một bệnh di truyền, nhưng nó không theo một khuôn mẫu điển hình chi phối. Không ai có thể dự đoán đứa trẻ sinh ra có bị vẩy nến hay không? Hiện tại vẫn chưa tìm ra căn cứ di truyền của bệnh vẩy nến. Nếu bố hoặc mẹ bị vẩy nến thì đứa trẻ sinh ra có nguy cơ 10% bị mắc bệnh vẩy nến. Nếu cả cha và mẹ bị vẩy nến thì nguy cơ đứa trẻ bị vẩy nến tăng lên tới 50%.

Các nghiên cứu của các cặp song sinh giống hệt nhau với bệnh vẩy nến cho thấy rằng bệnh vẩy nến có một phần di truyền. Nhưng những nghiên cứu tương tự cũng khẳng định sự phức tạp của bệnh vẩy nến. Ngoài ra, yếu tố môi trường cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát sinh vẩy nến. Lý thuyết cho rằng bệnh vẩy nến được kích hoạt bởi một sự kết hợp của các gen và các lực lượng bên ngoài được gọi là "đa yếu tố thừa kế." Một khi các gen chịu trách nhiệm cho bệnh vẩy nến được phát hiện, các mô hình thừa kế có thể được hiểu rõ hơn.

Nếu bạn muốn có thai, hãy nói với bác sỹ của bạn để họ có thể sử dụng thuốc và kiểm soát bệnh của bạn tốt hơn cả trước khi mang thai, sau khi mang thai và trong lúc cho con bú.

Một nghiên cứu gần đây được công bố trên Tạp chí của Học viện Da liễu Mỹ cho thấy rằng phụ nữ bị bệnh vẩy nến nặng có thể sinh một em bé nhẹ cân hơn so với những phụ nữ không có bệnh vẩy nến. Tuy nhiên, phụ nữ với bệnh vẩy nến nhẹ thì ít ảnh hưởng đến thai nhi

BỆNH VẨY NẾN PHẤN HỒNG

Chẩn đoán bệnh vảy nến phấn hồng: Dựa vào vị trí 1/2 người phía trên, tổn thương có tính chất đám mẹ, đám con, đám mẹ hình tròn vài cm đường kính, màu đỏ hồng có viền vảy ở xung quanh, ở giữa hơi nhăn màu nhạt hơn. các đám con 1cm đường kính dạng sẩn mày đay, ban đỏ, hơi có vảy. 


Vẩy phấn hồng thường được các bác sĩ chuyên khoa Da Liễu chẩn đoán xác định nhanh chóng dựa vào các triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu lúc bệnh mới khởi phát, vẩy phấn hồng cần được chẩn đoán phân biệt với một số bệnh ngoài da khác như: lang ben, nấm da, chàm, vẩy nến, giang mai II. Một số trường hợp phải cần đến các phương pháp cận lâm sàng như xét nghiệm huyết học, sinh thiết sang thương da... để xác định chẩn đoán bệnh vảy nến phấn hồng.
Vẩy nến phấn hồng
Cần chẩn đoán phân biệt với:

-Nấm da

- Viêm da da dầu: viêm da da dầu tổn thương thường có đỏ da, vảy mỡ ở vùng mặt, ngực, lưng..

- Giang mai 2: tổn thương là đào ban, sẩn giang mai, mảng niêm mạc không ngứa, không đau, xét nghiệm huyết thanh giang mai (+).

- ban mày đay.

- Vảy nến thể chấm giọt

- Viêm da liên cầu

Điều trị bệnh vảy nến phấn hồng:
Trong đa số các trường hợp, vẩy phấn hồng sẽ tự khỏi bệnh sau 4-8 tuần không cần phải dùng thuốc. Việc điều trị chủ yếu là kiểm soát triệu chứng ngứa. Các thuốc kháng virus(acyclovir, famciclovir) hay kháng sinh (erythromycin) có thể rút ngắn thời gian kéo dài của vẩy phấn hồng xuống 1-2 tuần. Nếu bệnh nhân ngứa nhiều, bác sĩ điều trị có thể dùng thêm:

Kem, pommade có Steroid : Elomet, Flucinar, Diprosone, Dermovate, Lorinden…giúp giảm ngứa và sang thương bớt đỏ.

Xà phòng có hắc ín, salicylic acid làm bong vẩy: Polytar bar, SASTID bar.

Thuốc kháng histamines : Cetirizine (Zyrtec) ,Fexofenadine (Allegra, Telfast) Diphenhydramine (Benadryl), Chlorpheniramine (Chlor-Trimeton), Clemastine (Tavist) , Loratadine (Claritin).

Quang trị liệu: Chiếu tia cực tím UVB vào sang thương da.
Để giảm cảm giác khó chịu, bệnh nhân đươc khuyên nên tắm nước ấm với dung dịch Calamine và tránh các hoạt động thể lực gây mồ hôi nhiều, nghỉ ngơi trong điều kiện nhiệt độ mát và thông khí tốt.

Điều trị triệu chứng là chính. Điều trị mạnh tại chỗ là không cần thiết. Tránh kích thích bởi tắm nóng, xà phòng và quần áo len. Để chống da khô, tránh kích thích có thể dùng cream corticoid.

Chiếu tia cực tím liều dưới đỏ da. Những cas nặng tốt nhất là chiếu UVA được coi là hiệu quả nhất.
Bôi dung dịch Rivanol 1 %o có thể cho kết quả tốt. Có tác giả còn cho uống cả Rivanol.

Uống kháng histamin tổng hợp, nếu cần cho uống một đợt corticoid. Bệnh có thể tự lành không cần điều trị. Nếu ngứa nhiều thì dùng thuốc kháng Histamin, an thần.

Nếu xác định có nguyên nhân gây bệnh bệnh vảy nến phấn hồng thì điều trị theo nguyên nhân.


Biến chứng bệnh vảy nến phấn hồng.
- Vẩy phấn hồng có thể gây ngứa nhiều, đặc biệt khi thân nhiệt bệnh nhân quá nóng.

- Các hồng ban có thể khỏi hoàn toàn không để lại dấu vết. Tuy nhiên nếu da bệnh nhân sâm màu, tại các vị trí của sang thương mất đi có thể còn lưu lại các đốm nâu.